Tin nổi bật

Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông dạy con trong buổi lễ truyền ngôi vua

    Vị thứ tư: Cụ Lý Trung Kiên, 78 tuổi, ở Quốc Oai hỏi:

    – Thưa Đức vua kính mến, bảo vệ quốc gia Ngài đã làm tròn, đó là việc làm của Ngài đối với Quốc Gia và dân tộc. Chúng tôi nghe Ngài đạt được “Bí mật Thiền tông” và được “Rơi và Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”. Vậy, kính xin Ngài dạy chúng tôi về tín ngưỡng trong nhân dân, thế nào là Mê Tín và thế nào là Chánh Tín, kính xin cám ơn Đức vua?

    Đức vua Trần Nhân Tông trả lời cụ ông Lý Trung Kiên:

   Mê Tín là như sau:

   – Cầu người khác cho của mình là Mê Tín.

    Còn Chánh Tín:

   – Cụ đến những nơi thờ phượng, để nhớ ơn và chiêm ngưỡng đức hạnh của người đó là Chánh Tín.

    Cụ Lý Trung Kiên hỏi tiếp:

    – Hiện nay, nhiều người cầu Thần ,Thánh hay ai đó, vậy là Mê Tín hết sao?

    Đức vua Trần Nhân Tông giải thích:

    – Trẫm thấy rất rõ và hiểu biết tường tận, việc cầu xin Thần, Thánh hay ai đó, những người này tưởng tượng ra đó thôi, chớ ông Thần hay bà Thánh ở thế giới khác, không ai đến được cõi Người cả.

    Vì sao vậy?

    Vì ở mỗi cõi có sự sống riêng, phải sống với nghiệp quả mình đã tạo ra từ vô lượng kiếp trước.

    Còn những người nói, có ông Thần hay bà Thánh nào đó cho phước họ, là họ bịa ra để dụ những người khờ khạo đến nghe và tin, thì học được lợi lớn mà không phải đi lao động vất vả.

    Vì sao họ tưởng tượng?

        – Vì hiện nay có rất nhiều người cần xin Thần,Thánh, nên họ bày ra để kiếm tiền mà được danh lớn.

    Cụ Lý Trung Kiên lại hỏi tiếp:

    – Kính thưa Đức vua, Đức vua dạy, sống nơi thế giới này là sống theo nhân quả của mỗi người. Vậy, kính xin Đức vua dạy rõ cho chúng tôi rõ về nhân quả nơi thế giới này?

    Đức vua dạy:

    – Nơi thế giới vật lý này, bất cứ ai cũng phải sống theo nhân quả của mình cả, không ai sống ngoài vòng nhân quả được.

    Vì sao vậy?

    – Vì bất cứ thứ gì sống nơi thế giới luân chuyển này, đều phải sống theo nhân quả của mình cả. Nhân quả là cốt lõi của thế giới này đó.

    Trẫm nói rõ cho cụ rõ:

    – Tất cả những chuyện xảy ra nơi thế giới này là biến chuyển của vật lý Âm Dương, không có ai làm ra cả. Tuy nhiên ở thế giới vật lý này, người giàu có thể bố thí cho người khác được. Người đứng ra bố thí này là họ có mục đích riêng.

    Còn người sống ở cõi Trời hay các cõi khác, họ không đến với thế giới này được.

    Ví dụ, họ bị nghiệp quả làm dân cõi Trời, thì họ phải ở cõi đó, không đến cõi khác được. Thực tế là loài Người, không thể sống chung với loài cá được.

    Cụ ông Lý Trung Kiên hết sức vui mừng và cám ơn Đức vua.

    Vị thứ năm: Cụ ông Đinh Thành Phát, 76 tuổi, quê ở Phú Thọ, đứng lên thưa hỏi:

    – Kính thưa Đức vua, mỗi con người tạo ra phước đức và công đức, hai thứ này được lưu giữ ở đâu?

    Đức vua trả lời:

    – Công đức được lưu giữ trong vỏ bọc của Phật tánh, còn phước đực được lưu giữ ở trong vỏ bọc của Tánh Người.

    Cụ Lý Trung Kiên vui mừng và cám ơn Đức vua.

    Vị hỏi thứ sáu: Cụ Đinh Thành Phát, 78 tuổi, ở Thái Bình hỏi:

    – Kính thưa Đức vua, làm sao tạo ra công đức và làm sao tạo ra phước đức?

    Đức vua trả lời:

    – Muốn có công đức, cụ phải tìm hiểu 4 căn bản như sau:

    1- Trong “Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” là gì?

    2- Phật Tánh cấu tạo những chi?

  1. Tu sao được giải thoát?
  2. Tu sao bị luân hồi?

    Chỉ cần cụ thông hiểu 4 phần trên và đi nói lại cho người khác biết, nếu người khác cũng thông hiểu như cụ là cụ có công đức.

     Còn muốn có phước đức, cụ bố thí hay giúp đở người khác là có phước đức.

    Cụ Đinh Thành Phát lại thêm:

    – Kính thưa Đức vua, công đức để làm gì và phước đức để làm chi?

    Đức vua trả lời:

    – Công đức là để nuôi lớn Pháp Thân Thanh Tịnh khi vào “Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”.

    – Phước đức là để mua nhà cửa ruộng vườn, nếu có phước đức thật nhiều thì được sanh lên các cõi cao hơn.

    Đức vua liền tặng cho cụ Đinh Thành Phát 16 câu kệ như sau:

        Trong nhà có báu không xài

Cầu xin, khẩn lạy, lạy hoài mệt thân

    Thiền tông, Phật dạy không cần

Chỉ cần thanh tịnh thoát vòng trầm luân.

    Cấm đầu mà lạy không ngừng

Lạy chi phí sức không “Dừng” được đâu

    Thiền tông Phật dạy không cầu

Muốn về quê cũ không cầu lạy ai.

    Muốn thoát sanh tử Trần ai

Sống với Phậ tánh, Trần ai không màng

    Bỏ đi những chuyện thế gian

Tức khắc giải thoát, Niết bàn hiện ra.

    Cụ Đinh Thành Phát nghe Đức vua giải thích quá rõ, vô cùng cám ơn.

    Vị thứ bảy: Cụ Lý Chánh Trung, 69 tuổi, ở Nam Định, thưa hỏi:

    – Ngài chỉ hơn 40 tuổi, tức còn quá trẻ, Ngài thấy ngôi vua và Thiền tông, bên nào quí hơn?

   Đức vua trả lời:

   – Người ham chức ham quyền nơi thế giới này, thì ngôi vua là quí. Nhất.

   – Người thích  giác ngộ và giải thoát, thì pháp môn Thiền tông này là quí nhất.

    Vị thứ tám: Cụ Nguyễn Chí Dân, 75 tuổi, ở Hải Dương hỏi:

    – Kính thưa Đức vua, ngoài đạo Phật ra có những nơi thờ phượng nào nữa, kính xin Ngài dạy chúng tôi?

    Đức vua trả lời:

    – Ngoài đạo Phật, trong nước ta có thêm 3 cách thờ nữa:

    1- Đền: Nơi thờ những vị có công trận lớn với quốc gia.

    2- Đình: Nơi thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, tức Hồn Thiêng Sông Núi, hoặc người có công trận lớn với địa phương.

    3-Miếu: Nơi thờ những người có công trận nhỏ với địa phương, hoặc những người vì dân vì nước vượt trội ở địa phương.

    Trên đây là căn bản việc thờ phượng nơi đất nước Việt Nam này. Nhưng Trẫm cũng nói cho cụ rõ, những người này không ban phước ai hay gián họa cho ai.

    Đức vua dạy thêm, thờ mà Mê Tín như sau:

   1- Những nơi thờ để người khác đến lễ lạy và cầu xin. Trên đời này, không có ai ban phước cho ai cả, những người bịa ra như vậy là vì họ lừa người để được ăn no ở không, đây là Mê Tín.

    2- Trong Tam giới này ai cũng bị nhân quả cả, không ai làm được việc này. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy, và Trẫm cũng biết như sau: “Tam giới vô an du như hỏa trạch”, tức trong Tam giới như ở trong nhà lửa, thì ai cũng bị lửa Vô Thường thiêu đốt cả, tức phải bị luân hồi, thì ai có thể giúp ai được.

    Nghe xong những câu hỏi của mình, cụ Nguyễn Chí Dân hết sức vui mừng và cám ơn Đức vua.

    Vị thứ chín: Cụ ông Trương Thế Hoành, 80 tuôi, ở Ninh Bình, xin hỏi:

    – Kính thưa Đức vua, Thần trước kia làm quan trong Triều, đã nghĩ hưu gần 20 năm rồi, Đức vua là vị được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”, đồng nghĩa Đức vua đã thành Phật. Vị Phật nào cũng có lòng Từ Bi, thì làm sao đánh giặc Nguyên – Mông được. Vậy, kính xin Đức vua cho Thần hiểu, tại sao Đức vua lại đánh đuổi giặc ngoại xâm dễ dàng như vậy, kính xin cám ơn?

    Đức vua dạy cụ Trương Thế Hoành:

    – Người tu theo Thiền tông Phật giáo, khi được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” thì thấy và biết rõ như sau:

    1- Ở trong “Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” không có lòng Từ Bi, mà chi có: Thấy, Nghe, Pháp, Biết, trùm khắp thôi.

    2- Ở nơi thế giới loài người mới có lòng Từ Bi, cái Từ Bi nơi loài người phải phân định như sau:

   A- Ví dụ, một người cầm dao tự nhiên chém giết nhiều người, khác, người có lòng Từ Bi thì bằng cách nào đó ngăn cản người này lại. Trẫm là người đã Giác Ngộ, thấy quân Nguyên – Mông chiếm nước ta, thì cái Từ Bi của Trẫm là đánh đuổi quân Nguyên – Mông ra ngoải bờ cỏi và không truy sát họ. Như vậy, Trẫm thực hiện đúng lòng Từ Bi trong Nhà Phật.

Đức Phật dạy:

– Đạo Phật là đạo Từ Bi và Trí Tuệ, giúp quốc gia Việt Nam được bình yên và cứu nhân dân không phải làm nô lệ cho kẻ khác, là Trẫm đã sử dụng lòng Từ Bi chân chánh mà Đức Phật dạy.

   B- Khi Trẫm đánh quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta, Trẫm sử dụng Tánh thanh tịnh của con Người để đánh, chớ Tánh Thanh tịnh của Phật tánh Trẫm không sử dụng. Vì vậy, Trẫm khi đánh giặc là sử Tánh Người thanh tịnh. Vì là Thanh tịnh nên  toàn quân và toàn dân của Trẫm không ai sợ quân giặc cả, nhờ vậy mà quân, dân Việt Nam đánh chắc và thắng chắc quân thù.

Cụ Trương Thế Hoành hết sức vui mừng và cám ơn Đức vua.

Vị thứ mười: Thái tử Trần Anh Tông có trình thưa hỏi Phụ Vương như sau:

– Kính thưa Phụ Vương, thuật đánh quân xâm lược của Phụ Vương con đã hiểu. Vậy, kính xin Phụ Vương dạy con căn bản giữ nước như thế nào cho bền vững?

Đức vua dạy Thái tử Trần Anh Tông, con muốn quốc gia cường thịnh và an ổn thì con phải dạy nhân dân như sau:

Một: Quốc gia mất thì nhà phải tan!

Hai: Không tủi nhục nào bằng mất nước!

Ba: Phải làm nô lệ cho người cướp nước mình!

Trên đây là 3 căn bản tủi nhục người bị mất nước.

Một vị vua cầm quân giỏi phải hiểu rõ:

    Một: Hiểu rõ chiến thuật của đối phương

    Hai: Hiểu rõ quân số của đối phương.

    Ba: Hiễu rõ lương thực của kẻ xâm lăng nuôi số binh  sĩ của họ được bao nhiêu ngày?

    Bốn: Con phải dạy cho toàn quân toàn dân thuật đánh quân xâm lược như sau:

  1. Khi đối mặt với quân thù, tâm phải kiên cườngkhông sợ.
  2. Đừng vội tấn công trước.

Vì sao vậy?

Vì quân thù khi đưa quân xâm lược nước ta, ban đầu họ rất hung hăng. Cứ để cho họ hung hăng bước vào nước ta đi. Khi họ mệt mỏi, thì con ra lệnh tổng tấn công và khóa chặt biên giới lại, không cho quân tiếp viện cũng như rút lui.

    3. Con phải nhớ một điều là, khi bọn họ bị thua chạy về nước của họ, con đừng đuổi theo, còn người bị con bắt làm tù binh, con phải đối đải tử tế với họ. Chính lòng bao dung này, mà họ kính nể Vua, Dân nước ta.

    4. Nếu quân thù quá mạnh, con phải sử dụng “Tiêu thổ”, không cho bọn họ ở trong nhà mình, còn tất cả những gì ăn được, uống được, thì phải cho giấu đi. Khi bọn họ hết lương thực rồi, thì con ra lệnh đánh nhanh, đánh chắc và quyết thắng.

    5. Khi kẻ xâm lược vào nước ta rồi, tức khắc con phải sử dụng một đội quân tinh nhuệ khóa cửa biên cương lại, không cho tiếp viện hay tháo lui. Đây là thuật nhốt quân nơi chiến trận.

Thái tử Trần Anh Tông nghe Phụ Vương dạy, Thái tử cố gắng nghe và nguyện thực hiện đúng lời Phụ Vương dạy.

Lời người sưu tầm:

   Đọc những lời của Đức vua Trần Nhân Tông dạy, là đánh giặc mà không sợ, đây là tuyệt binh thư đời Nhà Trần.

   Chúng tôi nhớ hiện tại, đài truyền hình VTV1, thường phát nhiều lần về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời cho một vị Tướng người Mỹ.

  Vị Tướng Mỹ hỏi như sau:

   – Ngài đánh quân Pháp và Mỹ, hai cường quốc này quân đội và phương tiện của họ rất hùng mạnh, vậy Ngài có sợ không?

  Vị Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời cho vị Tướng người Mỹ như sau:

   – Trong binh thư Việt Nam không có chữ sợ trong đó.

   Chúng tôi là hậu nhân, nghe vị Đại tướng Việt Nam trả lời về binh thư Việt Nam, chúng tôi mới nhớ lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

   – Nước Việt Nam khi bị người khác chiếm lấy, toàn Quân, toàn Dân Việt Nam mà không sợ thì:

   – Kẻ thù nào cũng đánh thắng.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dạy:

    – Dễ trăm lần không dân cũng chịu.

    – Khó vạn lần dân liệu cũng xong.

(Người sưu tầm là Viện chủ chùa Thiền tông Tân Diệu –  tác giả Nguyễn Nhân)